Thiết kế Komar (lớp tàu tên lửa)

Tàu có lượng giãn nước 61,5 tấn(tiêu chuẩn), 66,5 tấn (đầy tải), dài 25,4m, thủy thủ đoàn 17 người (3 sĩ quan). Tàu trang bị động cơ diesel tốc độ tối đa 44 hải lý/giờ[2].

Tàu Komar được trang bị với hai ống phóng ngư lôi 533 mm hoặc 2 tên lửa hành trình đối hạm P-15 Termit (NATO gọi là SS-N-2A Styx), một tháp pháo 2 nòng cỡ 25mm (1.000 viên đạn), radar MR-331[3]. Tên lửa có thân hình trụ, mũi hình tròn, giữa thân có 2 cánh tam giác lớn và 3 cánh lái ở đuôi.Các thiết bị điện tử trong tên lửa dựa trên thiết kế tín hiệu đơn giản với cảm biến radar hình nón [1]. Tàu có thể phóng tên lửa trong điều kiện sóng biển cấp 4. Khi phóng tên lửa, tàu Komar phải chạy tốc độ trên 15 hải lý/giờ.[4]

Trước khi phóng, đài radar MR-331 sẽ quét, khóa mục tiêu. Ở pha giữa, tên lửa hành trình bay tự động (cách mặt biển 100-300m), pha cuối, cách mục tiêu 11 km, cảm biến radar kích hoạt từ tìm mục tiêu tấn công. Với đầu đạn hình phễu nặng gần 500 kg, P-15 Termit có khả năng đánh chìm tàu chiến cỡ lớn[2]. Trong tác chiến, tàu Komar có thể độc lập hoặc đi theo đội hình cùng tấn công mục tiêu lớn với sự yểm trợ không quân, không ở lại trên biển hơn một ngày hoặc lâu hơn tránh thời tiết xấu[4].